Hoài niệm lịch sử

Trung quốc có 56 dân tộc thì riêng tại tỉnh Vân nam có đến 25 dân tộc, không kể những dân tộc có số lượng dưới 5.000 người nên không được công nhận. Người dân tộc thiểu số chiếm gần 40% dân số của tỉnh này.Nơi đây đã khai quật được và xác định hoá thạch người cổ nhất của Trung quốc. Khu vực hồ Điền Trì từng là trung tâm sản xuất đồ đồng bao gồm cả trống đồng với chất liệu đồng pha thiếc. Đến thời kỳ Hán –Sở tranh hùng thì nước Sở tiến vào khu vực này, khởi đầu lịch sử di cư và ảnh hưởng văn hoá Hán. Người dân tộc Dao lại là một trường hợp một dân tộc gần với Hán tộc nhưng đã H’Mong hoá.



Khoảng 2000 năm trước công nguyên, tại lưu vực sông Hồng, sông Mã và sống Cả đã có một nền văn hoá Tiền Đông Sơn ( Phùng Nguyên, Đồng Dậu, Gò Mun ). Đến cuối thời đại đồng thau thì kỷ thuật đúc đồng ở đây đạt đỉnh cao được thế giới biết được với văn hoá Đông Sơn .

Cư dân Đông Sơn đã sử dụng hợp kim đồng – thiếc – chì để giãm nhiệt độ nóng chảy, tăng độ dẻo nên có thể tăng kích thước sản phẩm, tăng độ sắc sảo và tăng sản lượng. Từ đó Đông Sơn trở nên công xưởng sản xuất đồ đồng cho khu vực lân cân như Nam Trung quốc và Đông Nam Á. Ngoài trống đồng, sản phẩm của Đông Sơn đáp ứng đầy đủ các nhu cầu: thạp, thố, giáp, lao, kiếm, dao, tấm giáp che ngực, bao tay, bao chân, dao găm, lẫy nỏ, lưỡi cày, rìu, xẻng, thuổn, dũa, quả cân, đèn, lọ đốt trầm, chuông, lục lạc, vòng trang sức, thắt lưng, trâm cài, tượng, đồ gốm,..Tất cả đều được trang trí hoa văn rất đẹp gồm hoa văn kỷ hà và hoa văn miêu tả cuộc sống.

Cuối thời kỳ đồ đồng và bắt đầu chuyển qua thời kỳ đồ sắt thì hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn cũng giãm bớt, đơn giản hoá và thiên về cách điệu hoá và xuất hiện một số đồ sắt hoặc đồ đồng sắt tiếp hợp như kiếm cán đồng lưỡi sắt.

Ông Nishimura Masanari, nhà khảo cổ người Nhật  là người phát hiện mảnh khuôn đúc trống đồng duy nhất từ trước đến nay, có niên đại khoảng thế kỷ 1-3 sau Công nguyên. Điều này cho thấy, trống đồng được đúc ra từ chính Việt Nam,chứ không phải từ nơi khác mang đến. Không những vậy, ông cùng đồng nghiệp Việt Nam đã phát hiện các khuôn đúc mũi tên tại Luy Lâu. Điều này chứng tỏ mũi tên có niên đại thời kỳ An Dương Vương được sản xuất tại chỗ.
Ở Lạc Việt, sau thời kỳ các vua Hùng thành lập nước Văn Lang thì Âu Lạc là nhà nước thứ hai với An Dương Vương. Tại vùng Quảng Đông thì Triệu Đà lập nên nước Nam Việt trước cả khi nhà Hán ra đời. Đến đời Tần Thủy Hoàng thì Triệu Đà thần phục và xin Tần Thủy Hoàng cho 500.000 người Trung Nguyên di cư xuống phía Nam để đồng hóa Bách Việt. Khi Tần Thủy Hoàng chết thì Triệu Đà giết hết các quan nhà Tần tại chổ và thay bằng người của mình. 
Trình độ phát triển của Âu lạc lúc đó cao hơn Nam Việt của Triệu Đà nên Triệu Đà phải dùng mưu kế Trọng Thủy để học hỏi Âu Lạc. Sau đó Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc của An Dương Vương. Đến khi Lưu Bang lập nhà Tây Hán thì Triệu Đà lại thần phục nhà Hán. Hiện nay tại Quảng Châu vẩn còn di tích nền thành cổ của Nam Việt và có bảo tàng nước Nam Việt trưng bày nhiều ấn tín, giáp trụ, đồ sành sứ.. và đặc biệt có các mũi tên của Âu Lạc. Người nối dõi Triệu Đà là cháu nội Triệu Đà và theo vài sử liệu thì là con của Trọng Thủy. Lăng mộ của Triệu Văn Vương được phát hiện năm 1983, nằm ở độ sâu 20 m dưới Tượng Cương sơn ở Quảng Châu khi người ta đào móng để xây dựng một khách sạn, và nó đã được khai quật. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa thì toàn thể các châu quận kể cả vùng Nam Việt đều hưởng ứng dưới cờ của Hai Bà. Nhưng trong các cuộc khởi nghĩa sau này thì chỉ giành được độc lập cho Âu Lạc. Hiên nay ở Trung Quốc người ta vẩn gọi tỉnh Quảng Đông là tỉnh Việt. Và họ nói Việt Nam đương nhiên là có liên quan đến Việt !
Khi Triệu Đà thần phục nhà Hán là bắt đầu thời kỳ Bắc Thuộc lần thứ nhất đồ đồng Đông Sơn dần dần bị ảnh hưởng văn hoá Hán và ngược lại nhiều vật dụng của người Hán lại có nét hoa văn của Đông Sơn. Với chính sách tàn phá văn minh bản địa và bắt thợ thủ công về phục vụ cho chính quốc, văn hoá Đông Sơn đã chấm dứt sau cuộc khởi nghĩa của 2 bà khoảng 200 năm.
Trở lại Vân Nam: Phía Tây Bắc của tỉnh này là Tây Tạng, phía Tây là Myanmar, phía Nam là Lào và Đông Nam giáp với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang của Việt Nam, nội địa giáp với Tứ Xuyên, Quí Châu và Quảng Tây. Dân tộc thiểu số có các nhóm chính: nhóm ngôn ngữ Tạng, nhóm ngôn ngữ Miến, nhóm ngôn ngữ Thái, nhóm ngôn ngữ Mông.
Người Thái sống trãi rộng từ Bắc Miến Điện, Vân Nam, Quảng Tây, dọc theo Châu Giang đến tận Đài Loan và đảo Hải Nam. Người dân tộc Lâm Cao ở đảo Hải Nam, người Lạp Già ở Quảng Tây là người gốc Hán nhưng bị đồng hoá nên nói tiếng Thái cổ. Dân tộc Shan ở bang Shan của Myanmar là một chi của người Thái và được TQ lợi dụng để gây mất ổn định ở Myanmar.
Người Thái đã lần lượt thành lập vương quốc Nam Chiếu rồi Đại lý có lảnh thổ bao gồm Vân Nam, Quí Châu, Tây Nam Tứ Xuyên, Bắc Miến Điện, Bắc Lào và một số khu vực ở Tây Bắc Việt Nam. Một số bộ tộc Thái đã bắt đầu di dân về phương Nam đến định cư trên lảnh thổ phía Bắc của vương quốc Khmer có thể là từ thế kỷ thứ 8 do chiến tranh với nhà Hán, nhưng đến thế kỷ 13 Đại Lý mới thực sự mất nước do Mông Cổ tấn công và chiếm giử trong 130 năm. Khi đế quốc Mông Cổ suy tàn thì đất này bị nhà Minh đánh chiếm. Từ khi bị mất nước thì người Thái di cư về phương Nam thành lập nước Lào và nước Thái hiện nay.
Nam Lào và Bắc Thái Lan và Bắc Cambodia hiện nay trước kia là lảnh thổ Chân Lạp, tiền thân của đế chế Khmer. Thậm chí có thời kỳ người Thái đã chiếm giử luôn khu đền tháp Angkor. Ngày nay khu đền Angkor của Cambodia thuộc tỉnh Siemreap và Siemreap có nghĩa là “ đánh đuổi người Siêm”. Còn Đông Nam Thái Lan, Nam Cambodia và một phần Tây Nguyên và Nam Việt Nam  trước kia là thuộc về vương quốc Phù Nam.
Khi người Thái chiếm thành phố Angkor thì người Khmer chạy về phía Đông Nam, dời đô về  Phnom Penh. Một thế kỷ sau thì đến lượt Miến Điện đánh và tạm chiếm thủ đô Ayutthaya của người Thái 15 năm khiến họ phải chạy về Bangkok.
Tuy là kẻ chiếm hữu, nhưng người Thái ở Thái Lan đã chịu ảnh hưởng sâu nặng của nền văn minh rực rỡ Khmer và giờ đây văn hoá đã rất khác với người Thái còn sinh sống ở Vân Nam và Việt Nam.
Phù Nam là một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, trãi dài từ Nam Thái Lan, Nam Cambodia, trọn vùng châu thổ đồng bằng Cửu Long, lên Lâm Đồng và có thể kéo dài đến Quảng Nam trước khi khu vực ven biển Nam Trung bộ thuộc về vương quốc Chăm Pa.
Tại vị trí huyện Thoại Sơn ( An Giang) hiện nay, trước đây là hải cảng Óc Eo với hệ thống kênh đào qua tận kinh đô của Phù Nam nay thuộc địa phận Takeo của Cambodia. Sự thịnh vượng của Óc Eo do nó nằm trên trục thương mại trên biển chiến lược với Ấn Độ, Mã Lai và Trung quốc. Vai trò của Óc Eo có thể so sánh với Singapore hiện nay. Cùng với Óc Eo là cảng Sa Huỳnh phát triển giao thương rực rở và có giao lưu văn hoá với các vùng đất thuộc Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines ngày nay. Người ta đã tìm thấy nhiều đồng tiền La Mã tại di chỉ Óc Eo và tìm thấy nhiều bình đựng nước mắm ở Địa Trung Hải.
Ngôn ngữ của người Phù Nam thuộc ngữ hệ Mã Lai - Nam Đảo, giống với người Chăm, Ê Đê, Gia Rai,. Trang phục cũng giống người Tây Nguyên. Chữ viết là chử Phạn, tôn giáo Bà La Môn và Phật. Theo nghiên cứu, tượng Bà Núi Sam thực chất là một tượng Bà La Môn của người Phù Nam để lại.
Đến thế kỷ thứ 6 thì Phù Nam suy yếu vì không chú trọng phát triển vùng nông thôn, đồng bằng, công tác thuỷ nông không được coi trọng, lụt lội của sông Mê Kông khiến nhiều vùng đồng bằng phì nhiêu thành đầm lầy, làng mạc tiêu điều và đến thế kỷ thứ 7 Phù Nam thần phục Chân Lạp và thường được gọi là Thuỷ Chân Lạp để phân biệt với Lục Chân Lạp là vương quốc Chân Lạp gốc.
Mặc dù áp đặt quyền lực được nhưng trên thực tế việc cai quản vùng lãnh thổ mới bồi lấp nhiều sình lầy đối với Chân Lạp vô cùng khó khăn, việc khai khẩn đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực mà dân Chân lạp ít ỏi lại chỉ quen khai thác đất cao nên trên thực tế vẩn giao cho những người thuộc dòng dõi vua Phù Nam.
Sự không thích ứng với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá với Chân Lạp, chiến tranh liên miên với Chân Lạp và Chăm Pa làm Phù Nam suy yếu. Thêm nữa, sự bồi lấp của khu vực bán đảo Cà Mau khiến cho hải cảng Óc Eo mất lợi thế và dần dần Phù Nam tan rã.
Khi đó nhiều vương quốc nhỏ nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java thuộc Indonesia ngày nay.
Vào thế kỷ thứ 8 vương quốc Sailendra xâm chiếm toàn bộ Thuỷ Chân Lạp và đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu nhưng đến thế kỷ thứ 9 thì Sailendra từ bỏ vùng đất này. Thuỷ Chân Lạp bị bỏ hoang.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữ Mường

Vài dòng về ngôn ngữ